Nhiều
khi chúng tôi cứ tự hỏi, có nơi nào trên mảnh đất hình chữ S này lại dễ níu
chân người như thế. Có mảnh đất nào mà lại trở thành nơi “đất lành chim đậu”
của nhiều người con ở mọi miền quê như thế. Những đặc sản mỗi vùng miền theo
con người di cư và tụ hội cùng với những gì là vốn có bản địa đã khiến cho mảnh
đất cao nguyên Dak Lak có sức hấp dẫn đặc biệt về du lịch văn hóa, du lịch sinh
thái và cả du lịch lịch sử…
Bức
tranh đa sắc
Có lẽ khái niệm đầu tiên với nhiều người khi nghĩ về Dak Lak
là núi và rừng. Đúng chứ sao không! Càng tự hào khi đó là tiềm năng của Dak
Lak. Rừng núi cao nguyên Dak Lak ôm trong mình những báu vật, đó là những ngọn
thác bạc như Krông Kmar, Thủy Tiên, Dray Nur…; dòng sông Sêrêpôk cuồn cuộn réo
rắt suốt đêm ngày; những đại ngàn: Yok Đôn, Chư Yang Sin, Ea Sô… Chính món quà
tuyệt vời, hùng vĩ mà thiên nhiên ban tặng đã khiến Dak Lak trở thành nơi sản
sinh ra những trường ca Đam San, Xinh Nhã, quê hương của những cây đàn đá, đàn
t'rưng, đàn klông pút độc đáo. Đó còn là những lễ hội sôi động núi rừng như lễ
hội đâm trâu, mừng cơm mới, đua voi, lễ trưởng thành, lễ bỏ mả…
Như một quy luật lôgic của tinh thần, tất cả những giá trị
văn hóa ấy đã tạo điều kiện ươm mầm, nảy nở và lan tỏa để Dak Lak trở thành cái
nôi nuôi dưỡng Không gian Văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên được UNESCO công nhận
là Di sản Văn hóa phi vật thể của nhân loại. Lắng nghe tiếng cồng chiêng để
lắng nghe hơi thở của đại ngàn, đại ngàn cho sinh khí để cồng chiêng âm vang
hơn bất cứ nơi nào. Hồn cốt cồng chiêng hiển hiện trong tất thảy những lễ hội
của buôn làng.
Trên miền đất đỏ bazan màu mỡ này, các nhà khảo cổ học còn
phát hiện gần 30 di chỉ bao gồm dấu vết hậu kỳ đá cũ khoảng 3 vạn năm trước, sơ
kỳ đá mới khoảng 1 vạn năm, hậu kỳ đá mới (3.500-3.000 năm) và thời kỳ kim khí
(3000-1500 năm). Hành trình du lịch trên quê hương 10-3 anh hùng, điểm dừng
chân không thể thiếu là những di tích lịch sử nổi tiếng như: Nhà đày Buôn Ma
Thuột, Đình Lạc Giao, Đồn điền CADA, Biệt điện Bảo Đại - dấu ấn triều đại phong
kiến cuối cùng của Việt Nam...
Điểm tô thêm nền văn hóa
truyền thống các dân tộc bản địa còn có nét vẽ của cà phê và sự du nhập nền văn
hóa của các dân tộc thiểu số phía Bắc và nền văn hóa của người Kinh với đủ sắc
thái ba miền Trung - Nam - Bắc. Tất cả đều hòa quyện làm nên bức tranh văn hóa
đa sắc màu cho cao nguyên Dak Lak.
Dòng
sông lịch sử
Một nhà nghiên cứu đã ví
lịch sử của Dak Lak như một dòng sông. Nhiều du khách cứ băn khoăn để cắt nghĩa
mãi tại sao lại gọi là dòng sông lịch sử. Và họ bắt đầu đi tìm hiểu, khám phá
chính từ những chứng tích lịch sử còn được lưu giữ, bảo tồn trên mảnh đất này.
Một địa danh đi vào sử sách đó là Nhà đày Buôn Ma Thuột – nơi địa ngục trần
gian, nơi tôi luyện tinh thần cách mạng, nơi bản lĩnh Việt Nam tỏa sáng. Thiết
kế theo kiểu khép kín, tận dụng mặt bằng để giám sát tù nhân có hiệu quả cao
nhất, Nhà đày đã giam cầm 1.328 người giai đoạn 1930-1945.
Dù đã được trùng tu nhưng
mỗi lần trở lại nơi này, lòng người như chùng lại, chùng lại khi được chứng
kiến những hiện vật, được nghe kể những câu chuyện về tội ác tra tấn dã man của
kẻ thù để rồi khó có thể diễn tả hết sự khâm phục ý chí thép của những người
cộng sản. Nhìn khu nhà đày nằm giữa một khu dân cư đông đúc ở trung tâm TP.Buôn
Ma Thuột, khó ai có thể hình dung được vào những năm 30 của thế kỷ trước, nơi
đây là rừng rậm âm u với không khí ẩm thấp và độc địa đến nỗi nhiều tù nhân ở
nơi khác đến không thể thích nghi được với thời tiết nơi này nên đã mắc bệnh
hiểm nghèo. Khi tù nhân chết, thực dân Pháp không cho chôn cất mà ném xác ra
ngoài bức tường Nhà đày cho thú dữ ăn thịt, thậm chí nhiều tù nhân chưa chết
hẳn, vẫn còn thoi thóp cũng bị chúng ném ra ngoài không thương tiếc. Thực dân
Pháp còn sử dụng chính sách “15 ngày ăn nhạt và 15 ngày ăn mặn”; tức là 15 ngày
đầu chỉ cho tù nhân ăn cơm với nước lã, rồi sau đó chuyển sang ăn mặn với “công
thức” 5 thìa muối một thìa thức ăn và cho uống rất ít nước. Với chế độ ăn uống
như vậy, tù nhân kiệt sức rất nhanh và mắc nhiều căn bệnh hiểm nghèo. Một trong
số những căn bệnh khủng khiếp nhất là bệnh sốt rét đái ra máu.
Trong hoàn cảnh tù đày
nhưng những chiến sĩ cộng sản vẫn sắt son, kiên trung niềm tin với Đảng, với
cách mạng để tôi luyện cho mình tinh thần và ý chí “thép”. Những người tù đã
sáng tạo ra nhiều cách để liên lạc với nhau, bằng những vật dụng thường ngày như:
đôi đũa, chiếc muôi đã được khoét lõi để giấu tài liệu bên trong; đôi guốc gỗ
giấu sẵn tiền, thuốc men và những giấy tờ cần thiết bên dưới đế để chuẩn bị cho
những cuộc vượt ngục. Và năm 1940, Chi bộ Đảng đầu tiên của Dak Lak đã được
thành lập ngay trong Nhà đày Buôn Ma Thuột, đánh dấu một mốc son quan trọng, là
tiền đề để nhân dân các dân tộc Dak Lak đứng lên giành chính quyền thành công.
Nhà đày Buôn Ma Thuột với cuộc chiến đấu không mệt mỏi của các đảng viên cộng
sản thực tế đã trở thành đầu mối trung tâm, là yếu tố quyết định Cách mạng
Tháng Tám ở Dak Lak thành công.
Những tìm hiểu khám phá
khái lược nhất về địa chỉ đỏ - Nhà đày Buôn Ma Thuột chắc hẳn đã giúp du khách
phần nào hiểu tại sao nhà nghiên cứu ấy lại ví lịch sử Dak Lak như một dòng
sông. Dòng sông có bên bồi bên lở. Bên lở đó là tội ác, giam cầm hủy diệt của
đế quốc, thực dân; bên bồi đó là lịch sử tô thắm truyền thống yêu nước và đấu
tranh của các chiến sĩ. Chính sách khủng bố cực kỳ dã man của kẻ thù chẳng
những không ngăn trở được bước tiến của cách mạng mà trái lại nó trở nên một
thứ lửa thử vàng rèn luyện người cộng sản thêm cứng rắn, bồi đắp thêm tinh thần
đấu tranh để ghi danh mảnh đất 10-3 anh hùng trong pho lịch sử bằng vàng của
dân tộc. Chẳng vậy mà biết bao người đã từng gắn bó với Buôn Ma Thuột một thời
máu lửa, luôn muốn được thăm lại chiến trường xưa, dù chỉ một lần trong đời…
Dập
dềnh sóng nước hồ Lak…
Gió thổi về từ cánh rừng
xanh thẳm đại ngàn phía xa, từng đợt sóng gợn nhấp nhô trên mặt hồ mênh mông,
hơi lạnh bắt đầu lan tỏa, cái nắng vàng vọt giữa trưa ngoài kia như bị xua tan
trước cảnh hồ Lak bao la, dập dềnh sóng nước. Một lần ghé thăm, chiêm ngưỡng vẻ
đẹp của hồ Lak, du khách sẽ khó lòng quên được vẻ tươi mát và huyền ảo của nơi
này.
Hồ Lắk
Người ta thường nói rằng
nơi đây có 4 mùa trong một ngày: ấm áp sắc xuân vào buổi sáng, bỗng trở nên
nắng hanh hanh, thậm chí oi bức như mùa hè vào buổi trưa, rồi đậm sắc thu rực
rỡ của trời chiều và khi ánh nắng chợt tắt thì nơi này chìm trong mùa đông. Nhưng
có lẽ, chiều là thời điểm lý tưởng nhất để lột tả hết cái huyền ảo, thơ mộng
của hồ Lak. Vì vậy mà nhiều du khách đến đây, thường chọn buổi chiều tà để vãn
cảnh. Nắng dát vàng trải trên lòng hồ, chiếu xuống mặt nước làm ánh lên những
tia sáng nhỏ, óng ánh vàng; rồi từ từ chuyển sang màu tím khi hoàng hôn buông
tạo nên một vẻ huyền bí đến khó cưỡng lại những bước chân thôi thúc muốn khám
phá. Vào mùa mưa, nước dâng cao, mặt hồ trở nên mênh mông, xanh thẳm, đó đây,
từng vạt hoa sen, súng trổ bông, nhìn từ xa như những ngọn đèn chót đỏ, theo
từng làn sóng gợn, nổi bồng bềnh trên mặt nước, đẹp và thơ mộng hơn bao giờ
hết. Thời điểm này cũng là mùa lưới đơm, câu cá trên hồ Lak bắt đầu. Khi nắng
chỉ còn là những vệt sáng nhòe nhoẹt trên mặt nước, xa xa người dân lại lỉnh
kỉnh xô chậu, thả lưới hoặc trầm tư ngồi buông câu…
Cưỡi voi quanh hồ Lắk
Đứng dưới trời gió thổi
lộng, sải những bước đi chậm rãi dọc bờ hồ, nghe sóng vỗ ì ầm, trước vẻ bao la
của hồ Lak, du khách sẽ không khỏi choáng ngợp mà thốt lên rằng: có hồ nước
ngọt rộng 500 ha nào lại hiền hòa đứng cạnh dãy núi kỳ vĩ như bình phong chắn
gió giữa lòng cao nguyên xanh, đẹp và kỳ vĩ đến vậy?! Rời buôn Jun, nơi được
mặt hồ bao bọc, men theo con đường xoắn ốc, du khách sẽ đến tham quan Biệt điện
Bảo Đại rợp bóng cổ thụ… Với ông Phan Thành Lập, Việt kiều định cư ở Pháp từ
những năm 1986 thì mỗi lần về Việt Nam, đặt chân đến hồ Lak, ông lại có một cảm
giác mới lạ, để rồi cứ thấy xôn xao trong lòng khi trở lại thành phố ồn ào nước
bạn. Ông cho biết: “Tôi đã đi nhiều nơi, từng cưỡi trên lưng lạc đà ở
Mauritanie, ngựa ở Pháp… nhưng về với hồ Lak được cưỡi trên mình voi, một cảm
giác thích thú đến lạ! Nhìn chú voi to, khỏe là vậy song, cũng thật hiền hòa,
dễ gần. Lúc đầu, khi leo lên lưng voi, quả thật tôi và mọi người rất sợ nhưng
chỉ một lúc sau, chúng tôi không còn cảm giác sợ nữa mà thay vào đó là sự thích
thú của những người lần đầu được ngồi trên một con vật “khổng lồ”. Lần đầu đến
nơi này, bà Lebriere Patricia (là bác sĩ, hiện đang sống tại Pháp) tỏ vẻ thích
thú: “Tôi ngạc nhiên và lấy làm lạ là ở đây người ta chèo thuyền bằng một cây
sào thật là dài (cười) thay cho một mái chèo ngắn mà tôi đã từng thấy…”. Không
chỉ cảnh vật mà con người nơi đây cũng khiến bà lưu luyến không muốn rời xa.
“Họ rất gần gũi, cười chào với chúng tôi, dù phải cần đến phiên dịch chúng tôi
mới hiểu được. Đi đến đâu chúng tôi cũng bắt gặp những nụ cười thân thiện,
những cái bắt tay thật chặt và họ sẵn sàng mời chúng tôi vào nhà vui bên ché
rượu cần cùng với họ…” - bà Lebriere Patricia hào hứng cho biết thêm.
Đến với hồ Lak, nếu muốn
du khách có thể làm một chuyến cưỡi voi vượt hồ bằng con đường riêng chìm dưới
nước sâu hoặc ngồi trên thuyền độc mộc ngắm mặt hồ mênh mông sóng nước hòa lẫn
mây trời để cho những làn gió mát rượi thổi tung làn tóc rối; rồi cùng tham dự
những đêm hội bên bếp lửa, nghe âm thanh rộn rã của tiếng cồng chiêng; xem gái,
trai uyển chuyển trong từng nhịp xoang, thưởng thức ché rượu cần ngất ngây men
say, và khi men đã ngấm vào người, mọi người cất tiếng hát vút cao vang lên
giữa núi rừng; ngồi quây quần bên bếp lửa nghe kể chuyện ngày xưa, về huyền thoại
hồ Lak…
Báu
vật giữa đại ngàn
Những dòng thác không chỉ
biểu hiện đặc trưng cho sự kỳ vĩ của vùng đất này mà ẩn chứa đằng sau những
“dải ngân hà tuột khỏi mây” đó là cả tầng sâu văn hóa của các dân tộc bản địa
Tây Nguyên. Đó là những huyền thoại kỳ bí, những câu chuyện tình yêu bất
diệt làm say đắm lòng người…
Thác Dray Nur (Con dúi vàng)
Nằm trong hệ thống các
dòng thác Dray Sáp - Trinh Nữ - Gia Long trên dòng sông Sêrêpôk, cách trung tâm
TP. Buôn Ma Thuột khoảng 25km về phía Nam, cách thủy điện Buôn Kuốp gần 3km,
Dray Nur là một trong những dòng thác kỳ vĩ nhất của đại ngàn Tây Nguyên. Đổ
xuống từ độ cao 30m, nhìn từ xa Dray Nur như một dòng sông treo, khói nước tung
trắng xóa. Sự huyền diệu của hang động rộng khoảng 3.000m phía sau thác luôn
hấp dẫn với bất kỳ ai yêu thích khám phá những điều kỳ thú của thiên nhiên. Hơn
thế, thác Dray Nur còn trường tồn với huyền thoại gắn liền với sự ra đời của
mình. Thuở xa xưa có đôi trai gái yêu nhau say đắm, tình yêu của họ trải qua
bao gian truân, thử thách, bị hai dòng họ ngăn cản bởi sự hiềm khích vốn có từ
xa xưa. Để giữ trọn lời thề suốt đời chung thủy, họ đã ôm nhau trầm mình xuống
lòng sông Sêrêpôk cuồn cuộn sóng nước. Và đất trời Tây Nguyên đại ngàn đau xót
cho tình yêu của họ, trời nổi cơn thịnh nộ mây đen, gió mưa giông bão kéo đến
tách dòng sông ra làm hai nhánh chia cắt sự đi lại giữa hai dòng họ. Nhánh bên
này đổ xuống thác Dray Nur và nhánh còn lại tạo nên thác Dray Sáp.
Trái với vẻ hùng vĩ bất
tận của Dray Nur, thác Thủy Tiên lại mang vẻ đẹp mượt mà đằm thắm như mái tóc
của người thiếu nữ. Nằm trên địa phận xã Tam Giang, huyện Krông Năng, thác Thủy
Tiên hay còn gọi là thác Ba Tầng đẹp như tên gọi của nó đã làm say đắm lòng
biết bao du khách khi đã một lần đặt chân đến đây để khi chia tay không khỏi
lưu luyến, bâng khuâng. Thủy Tiên gồm nhiều tảng đá nằm gối chồng lên nhau
trông rất ngộ nghĩnh. Và ở mỗi tầng lại có một sự khác biệt. Tầng thứ nhất hơi
hẹp với độ dốc thấp, có bậc lên xuống rất dễ dàng với những dòng thác nhỏ nước
chảy êm đềm nghe như tiếng đàn du dương bên tai. Bên cạnh thác có nhiều rễ cây
buông thõng xuống tựa những chiếc võng đu đưa trong gió cùng khói nước trắng
xóa như ở chốn bồng lai tiên cảnh. Tầng thứ hai của thác trải rộng với nhiều
bậc đá, có chỗ nước đổ từ trên cao xuống những tảng đá làm bọt tung trắng xóa
trông xa như những đóa hoa mâm xôi đang khoe sắc dưới ánh nắng ban mai. Đặc
biệt ở tầng này có những vùng nước tạo nên những hồ nhỏ nơi du khách có thể tự
do đắm mình mơ mộng, thư giãn sau những ngày làm việc căng thẳng. Ở tầng thứ ba
thì nước đổ từ trên cao xuống tạo thành hồ nước sâu rồi từ đó dòng nước uốn mình
nhũn nhặn chảy nhẹ nhàng giữa cao nguyên xanh ngút ngàn. Đến với thác
Thủy Tiên, du khách sẽ còn được nghe kể huyền thoại về nàng H’Năng thủy chung,
gan dạ, nết na, cũng là tên của dòng sông chảy qua vùng đất này. Và dòng thác
tuyệt đẹp đó chính là mái tóc của nàng H’Năng…
Sâu trong núi Yông
Chak, buôn Yông Hắt, xã Krông Knô (huyện Lak) là thác Trâu Đá (liên puk pet)
theo cách gọi của người M’nông Gar tại đây.
Thác Trâu Đá mang hình
đầu một chú trâu trắng đang thở “phì phò” ra những dòng nước trắng xóa. Ngay
bên cạnh “mõm trâu” có một hốc nước, mà theo lời Y Chong Rtung – người dẫn
đường ở buôn Yông Hắt, đó là cối giã gạo bằng nước, một “nguồn thức ăn vô tận”
để trâu canh giữ cuộc sống nơi đây. Cách nơi chú trâu đang nằm khoảng 5m có một
cây nêu thiêng, theo truyền thuyết là nơi mà tổ tiên xa xưa của người M’nông
Gar đã cắm cây nêu xuống tảng đá và cột chú trâu trắng, sau khi cắm xuống thì
không nhổ lên được nữa. Ngay bên dưới chú trâu đá là các bậc thác, những dòng
nước lúc êm ả, lúc ầm ào như đang kể chuyện về sự huyền bí, thiêng liêng của
rừng xanh đại ngàn. Điều kỳ diệu là khi dòng nước tuôn ra từ trâu đá rồi tràn
xuống phía dưới, những phiến đá màu trắng sẽ mang một màu đỏ rất đặc trưng,
trông giống như dòng máu thiêng của chú trâu tạo nên một quang cảnh ngoạn mục
giữa núi rừng.
Để đến được với thác Trâu
Đá là cả một chuyến đi rất thú vị cho những người đam mê khám phá du lịch sinh
thái. Trước tiên, điều cần nhất trong chuyến đi là phải có một người dẫn đường
thông thạo tại địa phương, vì nơi đây còn hoang sơ nên nếu không cẩn thận sẽ dễ
bị lạc đường và đường lên thác cũng khá gian nan. Nguyên một cánh rừng cao che
khuất tầm nhìn, độc đáo có những loại hoa lá luôn biến đổi sắc màu theo mùa.
Đường rừng, cộng với những con dốc gần như thẳng đứng sẽ khiến bạn nản lòng,
nhưng những âm thanh vang vọng của thác nước dường như trợ sức để tiếp bước lên
đỉnh thác.
Mảnh
đất huyền sử
“Chiều về, từng đàn voi
đi, như chìm trong sương mờ. Rộn ràng từng lời chiêng reo vang dài theo bến
sông. Xa nghe tiếng ay ray, văng vẳng trong chiều nay. Con sông em đã qua, lấp
lánh xa mờ xa, mờ xa, mờ xa…”. Ấn tượng bởi ca từ đẹp, giai điệu trầm hùng trong
bài hát Buôn Đôn chiều của nhạc sĩ Hồ Tuấn như vang vọng từ giữa rừng sâu đại
ngàn. Hình ảnh về một Buôn Đôn như mộng, như ảo của huyền thoại nhưng cũng đầy
gần gũi, thân thương cứ hiện ra, ngân vang qua từng giai điệu, lắng đọng bao
xúc cảm. Buôn Đôn đẹp không chỉ bởi phong cảnh thiên nhiên hữu tình mà còn đẹp
ở tầng sâu văn hóa từ ngàn đời…
Sử sách ghi lại rằng,
Buôn Đôn theo cách gọi của người Êđê và M’nông, hay Bản Đôn theo cách gọi của
người Lào, có nghĩa là "Làng Đảo". Tên gọi ấy có lẽ gắn với vị trí
địa lý đặc thù và cũng bởi nơi đây trước kia là một ngôi làng được xây dựng trên
một bãi bồi (đảo nổi) của sông Sêrêpôk. Là hợp lưu của hai con sông mang trong
mình chuyện tình huyền sử: Krông Ana, Krông Knô - sông vợ, sông chồng. Sông
Sêrêpôk ngay từ những năm cuối thế kỷ 19, khi đường bộ còn chưa phát triển, đã
là một trong những đường giao thương quan trọng trong vùng. Và Bản Đôn ngay từ
ngày ấy đã trở thành một “thương cảng”, là nơi giao lưu, buôn bán, trao đổi
hàng hóa sầm uất giữa người Lào, Cao Miên và người bản địa. Cũng từ sự giao
thương ấy, những nét văn hóa bản địa và văn hóa của các tộc người Lào, Cao Miên
đã được tiếp biến, là vùng đất chan hòa với nhiều dân tộc anh em cùng chung
sống: Êđê, M’nông, Gia Rai, Lào, Thái…
Chuyện cũng kể lại rằng,
từ rất lâu, rất lâu rồi, Buôn Đôn đã nổi tiếng về nghề săn bắt và thuần dưỡng
voi rừng. Trong đó người tù trưởng hùng mạnh N’Thu K’Nul đã săn được hàng trăm
con voi và tặng Hoàng gia Thái Lan một con voi trắng. Vua Thái Lan rất cảm phục
đã phong tặng ông danh hiệu Khunjunop (Vua săn voi). Sau khi ông mất dân làng
đã xây mộ ông với sự kết hợp của hai kiểu kiến trúc M’nông - Lào để thể hiện
lòng biết ơn, tôn kính đối với vị tù trưởng quá cố và hiện tại ngôi mộ của vị
vua săn voi này vẫn nằm yên tĩnh, hòa mình vào giữa thăm thẳm của màu xanh cây
cối bao quanh. Dấu ấn, hình ảnh về vị vua săn voi ngày nào vẫn còn thấp thoáng
hiện diện trong đời sống hiện tại, đó là những câu chuyện của người dân trong
buôn về nghề săn voi truyền thống, ngôi nhà cổ hơn 100 tuổi với những kỷ vật
trường tồn qua năm tháng minh chứng của vùng đất nổi tiếng về săn bắt và thuần
dưỡng voi rừng. Tiếp nối những chiến công của người thủ lĩnh Khunjunop, người
cháu Ama Kông đã viết nên những câu chuyện của riêng mình: Là một grư (trưởng
đoàn săn voi) dũng mãnh, tài ba ông đã bắt được hơn 100 con voi và cũng đã được
vua Bảo Đại trao tặng thanh gươm quý. Đặc biệt bài thuốc của Ama Kông được lấy
từ lá, thân, rễ cây rừng đã trở thành đặc sản, món quà quý cho du khách ghé
Buôn Đôn mua về tặng người thân, bạn bè…
Buôn Đôn - mảnh đất được
dệt nên từ những câu chuyện huyền sử như càng được điểm tô, đẹp hơn lên bởi
cảnh sắc giao hòa. Những bãi sa bồi nối nhau nổi lên giữa dòng sông vào mùa
nước cạn; những cây đa cổ thụ cành xen cành, rễ đan rễ, chằng chịt, vấn vít tạo
thành những tán rừng nhỏ trên mặt sông. Để rồi từ những tán cây to khỏe ấy,
những ngôi nhà sàn trên cây được dựng lên làm chỗ dừng chân cho du khách nghỉ
trưa, thưởng thức những món đặc sản của Tây Nguyên và cùng say bên ché rượu cần…
Bà Niimura Yoko, một du
khách người Nhật Bản, người đã nhiều lần đến Buôn Đôn tham dự các lễ hội đua
voi truyền thống chia sẻ: “Đến với Buôn Đôn, hít thở không khí trong lành,
thoáng đãng, lắng nghe tiếng suối, tiếng lá cây xào xạc như được hòa cùng nhịp
đập với thiên nhiên. Đặc biệt là đến đây vào các dịp lễ hội, trong không khí
sôi động, náo nhiệt của các cuộc đua voi, phục dựng nghi thức săn voi, cúng bến
nước… tôi đã được biết thêm nhiều điều về những nét văn hóa đặc sắc của vùng
đất này…”
Lắc lư trên lưng voi,
chênh chao theo nhịp võng rung của chiếc cầu treo, những tiếng cười cứ tỏa lan,
mênh mang như sóng nước. Buôn Đôn vẫn luôn làm nao lòng, níu chân du khách bởi
vẻ đẹp mộc mạc, dịu dàng như người sơn nữ khoác trên mình tấm áo bí ẩn của lớp
lớp huyền sử…
Nguồn: bạn mình đăng ở Báo DAK LAK
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét